Khái quát Nữ_hoàng

Lịch sử cách gọi

Ở các quốc gia cổ đại như Trung Quốc, Ai Cập, Ba Tư, những người phụ nữ dù xuất thân từ vương thất hay hoàng tộc cũng đều không có quyền kế thừa ngai vị. Do vậy, ngôn ngữ tại những nền văn hóa này không có danh từ "nữ hóa" chỉ đến ngai quốc chủ, như Pharaoh của Ai Cập, Hoàng đế của Trung Hoa. Dù có cách dùng [Nữ hoàng] đối với trường hợp Hoàng đế, song điều đó chỉ mang tính tương đối.

Rất nhiều vị Nữ quân chủ cổ đại khi được truyền ngôi vị vẫn sử dụng danh xưng vốn dùng cho nam giới. Như Đế quốc Byzantine, có Irene thành Athena khi lên làm Hoàng đế của Đế quốc, bà dùng danh xưng [Basileus; βασιλεύς] theo truyền thống các Hoàng đế giới tính nam, hơn là tự dùng [Basilissa; βασίλισσα] vốn dành cho các Hoàng hậu Byzantine. Đối với trường hợp Quốc vương cũng vậy, Jadwiga của Ba Lan khi được tôn làm Vương, dùng danh hiệu [Rex Poloniae], tức [King of Poland; Quốc vương của Ba Lan]. Về sau, các đạo luật thừa kế tại một số quốc gia như Vương quốc Anh bắt đầu chấp nhận phụ nữ kế thừa ngôi vua, song không ít các quốc gia ở Châu Âu xem việc này là bất hợp pháp.

Trải qua Đông Á, các Nữ quốc chủ Tân La cùng Trưng Nữ Vương là những vị [Nữ vương] hiếm hoi, riêng [Nữ hoàng] càng hiếm hơn nữa. Những trường hợp phụ nữ trở thành Hoàng đế ở các quốc gia Đông Á đều rơi vào những sự kiện độc nhất vô nhị, không có tiền lệ hoặc không có một truyền thống lâu đời của các triều đại ấy. Kể như Nhật Bản, dù trong lịch sử ghi nhận có tới 8 vị Nữ Thiên hoàng, song không ít các nhận định cho rằng những người phụ nữ này thiên về nhiếp chính tạm thời cho triều đình hơn là có quyền lực thực tế của một Thiên hoàng[1].

Hầu hết các Nữ hoàng đế, dù là phụ nữ nhưng vẫn dùng danh xưng tương tự Hoàng đế. Trong ngôn ngữ Hán, [Hoàng đế] là một tước vị thường chỉ dùng cho nam giới, tuy nhiên nữ giới có trở thành Hoàng đế thì vẫn như cũ được gọi là Hoàng đế, do bản thân danh vị này không phân chia giới tính, chỉ khi nào cần cường điệu hóa giới tính của vị nữ quân chủ ấy thì mới cần gọi là [Nữ hoàng] mà thôi. Ví dụ như vị Nữ hoàng của Trung Quốc là Võ Tắc Thiên, bà lên ngôi và lập ra triều đại Võ Chu như một Thiên tử truyền thống, tôn xưng danh vị là [Thánh Thần hoàng đế; 聖神皇帝], đều như mọi Hoàng đế nam giới khác trong lịch sử. Hoặc như 8 vị Nữ Thiên hoàng trong lịch sử Nhật Bản, khi tôn xưng cũng đều là [Thiên hoàng] như các vị Thiên hoàng nam giới khác, hoàn toàn không phân biệt.

Tình huống cụ thể

Xét lịch sử từ Châu Âu sang Đông Á, xuất hiện [Nữ hoàng] tựu chung có 3 trường hợp chính:

  • Quan hệ huyết thống: tức là vị Nữ hoàng vốn là Công chúa của triều đại ấy, thường là con gái của vị Hoàng đế tiền nhiệm.Tình huống này xảy ra thông thường bản thân triều đại ấy có quy định cho con gái kế vị, hoặc một số trường hợp cực kỳ đặc thù nhằm duy trì sự ổn định của chính trị. Như Anna của Nga, Nguyên Chính Nữ hoàng của Nhật BảnLý Chiêu Hoàng của Đại Việt.
  • Hoàng hậu tiếm vị: tình huống này xảy ra khi Hoàng hậu tự lập lên ngôi, sau khi chồng của bà ta, tức Hoàng đế tiền nhiệm qua đời. Tình huống này xảy ra khi vị Hoàng hậu ấy có thế lực rất lớn đương thời. Điển hình như chính Võ Tắc Thiên của Trung Quốc, hay Ekaterina II của Nga.
  • Cả hai trường hợp trên: tức Hoàng hậu của Hoàng đế, vốn là chị em của Hoàng đế. Điều này xảy ra khá thường xuyên đối với hoàng tộc Nhật Bản, nơi hầu như Hoàng đế và Hoàng hậu đều có quan hệ huyết thống. Điển hình có Thôi Cổ Nữ hoàng, Hoàng Cực Nữ hoàng, Trì Thống Nữ hoàng cùng Nguyên Minh Nữ hoàng.